Popular Posts


Khái niệm


Trong kinh tế thị trường hoạt động tín dụng rất đa dạng, phong phú. Để hoạt động tín dụng được tốt, các Ngân hàng thương mại thông qua phân loại tín dụng quy định quy trình và các tiêu chuẩn quản lý tín dụng, phân tích tín dụng, quản lý cơ cấu tài sản nợ-tài sản có, quản lý rủi ro tín dụng.


Phân loại tín dụng nhằm giám sát và kiểm tra những khoản nợ hiện có theo các mức độ khác nhau, xác định chất lượng và mức độ rủi ro của những khoản nợ, từ đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản cho vay. Có nhiều tiêu thức phân loại tín dụng như các tiêu thức thời hạn tín dụng, mức độ cho vay, điều kiện đảm bảo đối với khoản cho vay. Nếu phân loại theo thời hạn cho vay có: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn (hay còn gọi là tín dụng ĐTPT).


- Tín dụng trung hạn : Là loại tín dụng trên 12 tháng đến 60 tháng(Có thời kỳ quy định từ 12 tháng đến 36 tháng), loại tín dụng này cung cấp để mua sắm tài sản cố định cải tiến và đổi mới kỹ thuật mở rộng và xây dựng các xí nghiệp nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.


- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời gian từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống, được sử dụng để cung cấp vốn đầu tư xây dựng (Đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, công trình thuộc cơ sở hạ tầng: đường xá, sân bay, ..) cải tiến thiết bị kỹ thuật, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất vốn lớn thời gian hoàn vốn phải nhiều năm .





Đặc điểm của tín dụng ĐTPT


Tín dụng ĐTPT là một loại tín dụng có thời hạn trên một năm và được dùng để cung cấp mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng xây dựng các công trình cơ bản, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất quy mô lớn. Nói chung tín dụng ĐTPT được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tăng doanh số hay mở rộng địa bàn hoạt động.


Tín dụng ĐTPT: Đó là các khoản tín dụng định kỳ do Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người vay, mức cho vay được xác định theo nhu cầu các dự án cho vay, quy mô khoản cho vay khác nhau đáng kể giữa các ngành công nghiệp khác nhau nhưng thường dựa trên nguyên tắc dành khoản cho vay lớn cho các doanh nghiệp đầu tư lớn về nhà máy và trang thiết bị .


Phương thức cấp tiền vay và hoàn trả tiền vay của loại tín dụng này là: có thể cấp vốn một lần hoặc nhiều lần, còn khi hoàn trả (khác với vay ngắn hạn phải trả một lần) thì ở phương thức này có thể trả vào một lần mà cũng có thể trả theo thời gian biểu, thường thì trả theo thời gian biểu.


Lãi suất có thể được ấn định theo cơ chế lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước và của ngành trên cơ sở đối tượng cho vay mà hai bên thoả thuận.


Thời hạn cho vay thường được ấn định theo quy định chung và phụ thuộc vào khả năng thu hồi vốn trả nợ của người vay do 2 bên thoả thuận.





Vai trò của tín dụng ĐTPT đối với phát triển kinh tế


- Tín dụng ĐTPT đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế trên cơ sở cung ứng vốn cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, các khu đô thị.


- Tín dụng ĐTPT nhằm cung ứng vốn cho những doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh mà thiếu vốn. Đây là một cách gián tiếp thực hiện việc phát triển kinh tế. Có phát triển được sản xuất chúng ta mới có cơ sở để phát triển nền kinh tế nói chung. Trợ giúp vốn cho các thành phần kinh tế theo phương thức tín dụng trung, dài hạn là đầu tư chiều sâu giúp các đơn vị đó mở rộng sản xuất, tăng quy mô và năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng công trình.


- Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn : Tín dụng ĐTPT để đầu tư trang thiết bị của doanh nghiệp làm kích thích sản xuất phát triển. Do đó doanh nghiệp lại cần thêm nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng nhu cầu trước mắt như mua nguyên liệu, thuê thêm nhân công, thuê đại lý bán hàng... Từ đó dẫn đến thị trường vốn ngắn hạn được mở rộng theo tốc độ phát triển sản xuất.


- Tín dụng ĐTPT để phát triển ngành kinh tế theo chiều sâu, đó là đầu tư vào các công trình sản xuất, trang thiết bị, máy móc, tài sản cố định... Do đó sẽ thúc đẩy quá trình phát triển sản xuất nhiều loại sản phẩm, hàng hoá để tiêu thụ trong nước và để xuất khẩu. Việc xuất khẩu nhiều hàng hoá sẽ tăng nhiều ngoại tệ cho quốc gia và đảm bảo cán cân thanh toán quốc tế.


- Tín dụng ĐTPT giúp cho sản xuất phát triển, doanh thu của các đơn vị sản xuất tăng, các doanh nghiệp tăng thêm phần vốn góp vào Ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.


Nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng ĐTPT mỗi một Ngân hàng nói riêng và quốc gia nói chung đều đẩy mạnh công tác tín dụng tìm mọi biện pháp nâng cao tỷ trọng cũng như hiệu quả tín dụng ĐTPT làm tiền đề mở rộng kinh doanh trong thời gian tới.


Sự tồn tại khách quan của quan hệ tín dụng ĐTPT trong nền KTTT


Trong cơ chế thị trường, các quan hệ tín dụng nói chung và quan hệ tín dụng ĐTPT tồn tại một cách khách quan vì 3 lý do sau:




Thứ nhất: Do tính chất của vốn dư thừa là tạm thời nhàn rỗi.


Trong quá trình luân chuyển vốn ( T- H ... SX ... H’- T’ ...) có đặc điểm thừa và thiếu vốn tạm thời. Các đơn vị kinh tế, các cá nhân này có thu nhập nhưng chưa cần phải chi tiêu hoặc chi tiêu chưa hết. Các đơn vị, các cá nhân thiếu vốn một cách tạm thời khi chưa có thu nhập nhưng đã có nhu cầu chi tiêu hoặc tổng thu không đủ chi. Như vậy trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân sẽ xảy ra một hiện tượng thừa và thiếu vốn một cách tạm thời trong cùng một thời gian. Trách nhiệm của Nhà nước là điều hoà nguồn vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu để đảm bảo cho quá trình phát triển sản xuất của từng đơn vị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân..





Thứ hai: Do chế độ sở hữu khác nhau về vốn .


Đa dạng hoá sở hữu là nhân tố cơ bản của kinh tế thị trường tức là trong nền kinh tế thị trường có nhiều chủ sở hữu khác nhau về vốn. Các nguồn vốn thuộc các chủ sở hữu khác nhau trong quá trình luân chuyển cũng mang đặc điểm là thừa vốn và thiếu vốn một cách tạm thời. Do vậy phải có sự đòi hỏi chuyển hoá về vốn giữa các hình thức sở hữu khác nhau và trong nội bộ từng hình thức sở hữu. Sự chuyển hoá số vốn đó là không xâm phạm đến quyền sở hữu của người chủ của nó. Do vậy ở đây chỉ có thể thông qua con đường tín dụng có vay có trả.





Thứ ba: Do yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế.


Chế độ quản lý đòi hỏi các doanh nghiệp được quyền tự chủ về vốn và có trách nhiệm bảo toàn vốn và phát triển vốn, tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm để thực hiện thu bù chi và có lãi, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. Do vậy yêu cầu các đơn vị kinh tế phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả và phải thông qua con đường tín dụng để thoả mãn mọi nhu cầu về vốn một cách linh hoạt và kịp thời.


Theo Voer




- - 0 bình luận
CHUYÊN MỤC
  • Google Comment (0)
  • Facebook Comment ()
  • Emotion
  • Một số lưu ý khi bình luận

    Mọi bình luận sai nội quy sẽ bị xóa mà không cần báo trước

    Bấm Thông báo cho tôi bên dưới khung bình luận để nhận thông báo khi admin trả lời

    Để được tư vấn về thi tuyển ngân hàng, hãy để lại kèm số điện thoại và/hoặc email của bạn nhé!

  • :))
    :((
    :D
    :(
    :)
    :-)
    ;)
    =))
    :p
    =.=
    ==
    ^_^
    /=he
    :*
    /=r
    /=l
    :v
    /=ok
    /=clap
    (y)
    (yy)
    /=hi
    /=j
    /=hup
    /=hd
    /=hl
    /=hr
    /=s
    <3