Popular Posts


Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Tuỳ theo nhịp độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định tiền tệ của mỗi nước mà mỗi nước có nội dung, phương pháp điều hành, quản lý chính sách lãi suất tín dụng ở mức độ khác nhau.




Kinh nghiệm của Nhật Bản


Thị trường tiền tệ của Nhật Bản chỉ dành cho các ngân hàng và một số định chế tài chính được chính thức công nhận trong giai đoạn Nhật Bản phát triển với tốc độ cao. Sau này, Nhật Bản mở rộng thị trường tiền tệ cho các thành phần tham gia và thị trường liên ngân hàng gồm có thị trường mua tiền tệ (call money market) dành cho những giao dịch cực ngắn, phục vụ cho giao dịch thương mại và thị trường thương phiếu (bills market) dành cho các giao dịch dài hạn.


Hai thị trường này gồm có người cho vay, người đi vay và các nhà trung gian chuyên nghiệp, người buôn tiền ở thị trường tiền tệ. Vì giao dịch không ký quỹ nên người buôn tiền chỉ hoạt động như người môi giới. Ngân hàng Nhật cũng tham gia vào thị trường thương phiếu.


Để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, Nhật Bản còn áp dụng một số loai lãi suất có điều tiết được xây dựng dựa trên lãi suất chiết khấu và xác định dược lãi suất cơ bản là sàn lãi suất cho vay nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng được tự do xác định trên cơ sở cung cầu về vốn và làm lãi suất tham chiếu cho mọi định chế tài chính.





Kinh nghiệm của Pháp


Pháp dùng lãi suất của thị trường liên ngân hàng làm lãi suất chỉ đạo (lãi suất cơ bản). Lý do là vì Pháp là một nước mà lượng vay vốn ngân hàng nhiều hơn lượng vay vốn qua thị trường tài chính. Pháp dùng lãi suất cho vay chào mời vào lúc 11 giờ hàng ngày của 8 ngân hàng và hiện nay là của 12 ngân hàng để tính theo số trung bình cộng ra lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ và bằng Ecu.


Ở Pháp, các tín phiếu kho bạc được dành riêng cho thị trường liên ngân hàng.


Về lý thuyết, người ta cho rằng Pháp xác định lãi suất cơ bản do cung cầu tín dụng quy định. Trong 12 ngân hàng lớn, mỗi ngân hàng có quan hệ giữa nguồn vốn và cung cầu vốn tín dụng riêng, từ đó xác lập nên cung cầu vốn riêng của mình. Nếu cung < cầu thì ngân hàng đó phải đi vay ở thị trường liên ngân hàng và phản ánh bên cầu của thị trường liên ngân hàng. Nếu cung > cầu, ngân hàng đó sẽ là người cung ứng vốn cho thị trường liên ngân hàng và phản ánh bên cung của thị trường liên ngân hàng. Sự gặp gỡ cung cầu của eác ngân hàng lớn phản ánh cung cầu tín dụng của nền kinh tế. Nếu cung > cầu, lãi suất hạ xuống, nếu cung < cầu, lãi suất tăng lên. NHTƯ với vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng có thể không muốn lãi suất tăng lên sẽ cho vay một phần hoặc toàn bộ số cung < cầu. Có thể nói đây là một công cụ hữu hiệu để NHTƯ tác động vào lãi suất trên thị trường. Nhưng trong thực tế, lãi suất chỉ đạo đã biến động rất mạnh chứng tỏ vai trò quyết định hành chính của NHTƯ.


Lãi suất chiết chiết khấu của NHTƯ Pháp hoàn toàn không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường tiền tệ.





Kinh nghiệm của Hồng Kông


Hồng Kông có một nền kinh tế thị trường tự do - Phương Đông, do vậy mà lãi suất trên thị trường cũng là thả nổi. Hồng Kông không có các quan chức tiền tệ Trung ương. Viên toàn quyền và Hội đồng lập pháp chịu trách nhiệm công việc tài chính và tiền tệ.


Hồng Kông không có chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất độc lập trong dài hạn. Hiệp hội ngân hàng Hồng Kông đặt ra lãi suất tiền gửi tối đa để các ngân hàng căn cứ vào đó mà tự do định lãi suất cụ thể.





Kinh nghiệm của Malaysia


Từ những năm 70, Malaysia đã có nhiều đổi mới trong điều hành chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên, không phải tự do hoá lúc nào cũng là giải pháp tối ưu. NHTƯ Malaysia đã liên tục điều chỉnh lãi suất, phục vụ linh hoạt việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 1981, Malaysia cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, NHTƯ nhận thấy trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu trên nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985 - 1986), vào năm 1987, Malaysia đã chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của NHTƯ, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Với tinh thần đó, NHTƯ yêu cầu các NHTM tính lãi suất cơ bản của ngân hàng mình dựa trên mức lãi suất cơ bản của hai ngân hàng lớn "leader banks ". Các NHTM sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản của mình theo nguyên tắc áp dụng biên độ giao động xung quanh lãi suất cơ bản.


Hiện nay, các ngân hàng được phép tính lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình, nhưng để đảm bảo tính khách quan và tương đồng giữa các ngân hàng trong khi tính lãi suất cơ bản, NHTƯ đưa ra công thức chuẩn chung nhất để tính lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được xây dựng trên cơ sở các yếu tố: chi phí huy động (sau khi đã tính đến cả chi phí đáp ứng yêu cầu về dự trữ bắt buộc); các chi phí cho vay (gồm chi lương cho cán bộ, chi phí hành chính, các chi phí khác liên quan đến việc cho vay, nhưng không bao gồm chi phí liên quan đến các khoản nợ khó đòi); tỷ lệ lợi nhuận "profit margin" cho phép.


Trên cơ sở lãi suất cơ bản được công bố, các NHTM sẽ niêm yết mức lãi suất cơ bản của mình. Mức lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng sẽ là lãi suất cơ bản cộng với tỷ lệ phí rủi ro "risk premium" trong hoạt động ngân hàng áp dụng linh hoạt cho từng món vay. Các ngân hàng không được cho vay dưới mức lãi suất cơ bản đã công bố.


Như vậy, lãi suất đã được điều hành theo hướng vừa có sự chỉ đạo của NHTƯ, nhưng vẫn duy trì được quyền tự chủ của các NHTM trong việc quy định lãi suất. Lãi suất được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống.


Như vậy theo kinh nghiệm của các nước, sự tác động của Nhà nước những khi cần thiết vẫn là những quyết định hành chính về lãi suất công bố trên báo chí.


Từ kinh nghiệm của các nước, chúng ta có thể tham khảo và vận dụng một cách thích hợp vào điều kiện thực tế của Việt Nam để xây dựng một chính sách lãi suất tín dụng phù hợp.


Theo Voer



- - 0 bình luận
CHUYÊN MỤC
  • Google Comment (0)
  • Facebook Comment ()
  • Emotion
  • Một số lưu ý khi bình luận

    Mọi bình luận sai nội quy sẽ bị xóa mà không cần báo trước

    Bấm Thông báo cho tôi bên dưới khung bình luận để nhận thông báo khi admin trả lời

    Để được tư vấn về thi tuyển ngân hàng, hãy để lại kèm số điện thoại và/hoặc email của bạn nhé!

  • :))
    :((
    :D
    :(
    :)
    :-)
    ;)
    =))
    :p
    =.=
    ==
    ^_^
    /=he
    :*
    /=r
    /=l
    :v
    /=ok
    /=clap
    (y)
    (yy)
    /=hi
    /=j
    /=hup
    /=hd
    /=hl
    /=hr
    /=s
    <3